PHÁT HUY TIỀM NĂNG SẴN CÓ... Bài của Nhà văn Khuất thanh Chiểu
PHÁT HUY TIỀM NĂNG SẴN CÓ, TÍCH CỰC HUY ĐỘNG MỌI NGUỒN LỰC, HUYỆN BẢO LÂM TỪNG BƯỚC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ TOÀN DIỆN.
Khi mới thành lập (11/7/1994), Bảo Lâm là một trong những huyện nghèo của tỉnh. Mặt bằng xuất phát để phát triển KT-XH còn rất thấp. Sản xuất nông lâm, công nghiệp chưa phát triển, năng xuất lao động thấp. Kết câú hạ tầng hầu như chưa có gì. Điện mới chỉ có ở trung tâm thị trấn. Giao thông chủ yếu là đường đất. Trường học, trạm y tế, thiết chế văn hoá nơi có nơi không. Trình độ dân trí thấp. Đời sống nhân dân vô cùng khó khăn đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Đối diện với muôn vàn khó khăn nhưng Đảng bộ đã sớm nhận diện được những tiềm năng sẵn có của huyện; như khí hậu, thuỷ văn thuận lợi. Đất đai mầu mỡ. Tài nguyên rừng phong phú. Trong lòng đất trầm tích nhiều loại khoáng sản, đặc biệt là quặng bauxite. Sản lượng chè, càfê hàng năm tương đối lớn. Địa hình nhiều sông, suối, thuận lợi để xây dựng các nhà máy thuỷ điện… Tất cả những nhân tố ấy đã hội đủ điều kiện để huyện phát triển mạnh ngành sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông-lâm sản. Đảng bộ huyện đã triển khai công tác điều tra xây dựng cơ bản, trên cơ sở đó, xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội với mục tiêu xây dựng Bảo Lâm thành một trong bốn địa bàn kinh tế động lực của tỉnh. Đồng thời với việc định hướng phát triển kinh tế-xã hội, Đảng bộ đã xây dựng lộ trình và những giải pháp thích hợp để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động địa phương.
Về lĩnh vực kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 05 năm đầu kể từ ngày thành lập huyện là 9% đến giai đoạn 2010-2014 đạt 15,5%.Từ một huyện thuần nông, sau 20 năm xây dựng và phát triển, cơ cấu kinh tế của huyện đã chuyển dịch rõ nét theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, thương mại và dịch vụ: Khu vực nông – lâm – ngư nghiệp giảm từ 88,2% xuống còn 50,8%. Khu vực công nghiệp – xây dựng tăng từ 4,5% lên 33,5%. Khu vực thương mại - dịch vụ tăng từ 7,3% lên 15,7%. Sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng ứng dụng công nghệ cao. Diện tích cây chè, càfê ổn định. Trong những năm qua, huyện đã trồng mới, ghép cải tạo được 15.910 ha cây càfê, chuyển đổi giống 5.970 ha chè chất lượng cao. Năng xuất càfê tăng bình quân từ 1,2 tấn lên 3 tấn/ha; chè từ 3,7 tấn lên1 tấn/ha tăng gấp 3 lần năm 1994. Sản xuất công nghiệp – xây dựng có những bước phát triển nhanh chóng và vững chắc. Tốc độ tăng bình quân hàng năm thời kì 1994-2005 là 11,8%, giai đoạn 2006-2010 là 37,3%, giai đoạn 2011-2014 là 33,5%. Điểm đột phá góp phần đẩy mạnh tốc độ phát triển công nghiệp trên địa bàn huyện là nhiều công trình lớn có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội được khởi công xây dựng và đang phát huy hiệu quả bước đầu như: Nhà máy bauxite nhôm (hoạt động năm 2013), đến nay đã sản xuất được 361.208 tấn Alumin. Các công trình thuỷ điện: Đồng nai 3, Đồng nai 4, Đamboil-Đạtẻh và nhiều công trình thuỷ điện khác đang triển khai xây dựng đã góp phần phát triển ngành công nghiệp năng lượng. Sản lượng điện sản xuất năm 2014 đạt 1.654 triệu kwh. Hai ngành công nghiệp khai khoáng và phân phối điện nước đã tạo nên bước đột phá ban đầu, thúc đẩy sản xuất công nghiệp phát triển với tốc độ cao. Hiện nay trên địa bàn huyện có 784 cơ sở hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Tăng 552 cơ sở so với năm 1994. Với ưu thế là vùng nguyên liệu dồi dào, ngành công nghiệp chế biến chè, càfê đã được đầu tư mở rộng. Hai điểm công nghiệp Lộc Thắng và Lộc An đang mời gọi các nhà đầu tư sẽ là những điểm nhấn của công nghiệp địa phương trong tương lai.
Ngành công nghiệp – xây dựng phát triển mạnh, đã có ảnh hưởng tích cực đến ngành thương mại - dịch vụ. Số cơ sở kinh doanh thương mại tăng gấp 6,6 lần, từ 502 cơ sở năm 1994 tăng lên 3.292 cơ sở năm 2014. Số lao động lĩnh vực này cũng gia tăng tương ứng với tốc độ 8,1%/năm.Tổng mức bán lẻ giai đoạn 2010-2014 tăng bình quân hàng năm 26,2%. Giá trị sản xuất ngành thương mại – dịch vụ tăng bình quân 68,6%/năm.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tăng nhanh từ 18,8 tỷ đồng năm 1994 tăng lên 1.763 tỷ đồng năm 2013. Vốn đầu tư xây dựng của các tổ chức kinh tế, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh. Năm chương trình trọng tâm, 09 chương trình trọng điểm và nhóm chương trình trọng điểm đã được triển khai xây dựng. Nhiều tuyến đường giao thông, nhiều cơ sở hạ tầng về ngành giáo dục, y tế được xây dựng, nâng cấp, đáp ứng ngày càng tốt hơn đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân. Đến nay 100% xã, thị trấn có đường giao thông đến tận trung tâm thôn, buôn. 100% xã, thị trấn có điện lưới quốc gia. 100% khu dân cư được xem, nghe các chương trình truyền hình, truyền thanh của trung ương và địa phương.
Cùng với sự phát triển về kinh tế, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn cũng tăng liên tục. Năm 1994 là 4,9 tỷ đồng, đến năm 2013 là 448,2 tỷ đồng, tăng gấp 90 lần so với ngày đầu thành lập huyện.
Lĩnh vực văn hoá – xã hội có bước phát triển mới trong sự gắn kết giữa kinh tế với văn hoá và gải quyết các vấn đề xã hội. Khi thành lập huyện chỉ có 16 trường tiểu học và trung học cơ sở. Đến nay, mạng lưới trường học đã được mở rộng. Toàn huyện đã có 69 trường học, trong đó có 4 trường THPT, 01 trường PT dân tộc nội trú, 01 Trung tâm giáo dục thường xuyên, 01 trung tâm dạy nghề và 62 trường PT, mầm non với hơn 25.766 học sinh các cấp.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 26% năm 1994 xuống còn 14,5% năm 2014. Công tác xoá đói giảm nghèo đạt được những kết quả quan trọng. Tỷ lệ hộ nghèo ( theo tiêu chí mới ) bình quân giảm 9%/năm. Riêng vùng đồng bào dân tộc tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 12%/năm. Công tác thực hiện các chính sách xã hội trên địa bàn có nhiều tiến bộ. 100% hộ gia đình thương binh, liệt sỹ có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình so với người dân tại địa phương. Các chương trình về chăm sóc sức khoẻ y tế, dân số - kế hoạch hoá gia đình được quan tâm thực hiện. Phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục phát triển sâu rộng. Đến nay đã có 03 xã: Lộc An, Lộc Quảng, Lộc Thành được công nhận đạt chuẩn văn hoá. 128/134 thôn, tổ được công nhận là thôn, tổ văn hoá. Các phong trào đền ơn, đáp nghĩa, chăm sóc người có công, bà mẹ VN anh hùng, thương binh, gia đình liệt sỹ, các hoạt động nhân đạo, từ thiện được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia đang trở thành nếp sống đẹp, lành mạnh, mang tính nhân văn sâu sắc của các dân tộc trong huyện.
Công tác quốc phòng, an ninh thường xuyên được quan tâm. Thế trận an ninh nhân dân kết hợp với thế trận quốc phòng toàn dân được củng cố và phát triển. Công tác tiếp dân, giải quyết các đơn thư khiếu tố được giải quyết kịp thời, đáp ứng phần nào nguyện vọng chính đáng của quần chúng.
Qua 20 năm xây dựng và phát triển, công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở đã có nhiều tiến bộ. Bộ máy Đảng, chính quyền phát huy được hiệu quả quản lí, điều hành theo pháp luật; năng động hơn trong việc cụ thể hoá các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Trách nhiệm công vụ của cán bộ, viên chức nhà nước cũng được nâng cao trong quá trình thực hiện cải cách thủ tục hành chính. Về tổ chức Đảng và đảng viên. Khi mới thành lập, huyện chỉ có 29 tổ chức cơ sở Đảng với 578 đảng viên. Có 16 thôn không có đảng viên và 22 chi bộ phải sinh hoạt ghép. Sau 04 kì đại hội, đến nay Đảng bộ đã có 40 tổ chức cơ sở đảng với hơn 2500 đảng viên. Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng được nâng lên rõ rệt. 85% cán bộ, công chức đã đạt chuẩn theo qui định. Phong cách, lề lối làm việc, ý thức trách nhiệm đã chuyển biến theo hướng sát dân hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng được Đảng bộ đặc biệt quan tâm. Sau 20 năm có 1653 người được đưa đi đào tạo về chuyên môn, lý luận chính trị các cấp, nhờ đó mà đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị từng bước được chuẩn hoá đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Có được nghững thành tựu trên là do huyện Bảo Lâm đã biết khai thác một cách hiệu quả những tiềm năng sẵn có. Tích cực chủ động huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế. Tranh thủ sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND cùng sự hỗ trợ của các sở, ngành của tỉnh trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng của huyện một cách hoàn chỉnh. Đặc biệt, nghị quyết chuyên đề số 06-NQ/TU “ Về đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của huyện Bảo Lâm trong giai đoạn 2010-2015” của Tỉnh uỷ đã thực sự là hướng đi, đồng thời là động lực để huyện tạo được sự chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh vực. Bên cạnh những thuận lợi, quá trình xây dựng và phát triển cũng đặt ra cho địa phương nhiều khó khăn, thách thức. Nổi bật là việc giải quyết hài hoà, hợp lí giữa công tác quy hoạch, xây dựng khu dân cư, triển khai những dự án kinh tế… với việc giữ được rừng và bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ không gian văn hoá cồng chiêng tây nguyên – di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại. Công tác ổn định đời sống cho đồng bào dân tộc cũng đòi hỏi phải có những giải pháp mới, đồng bộ, đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng cũng như nếp sống văn hoá của đồng bào có từ xa xưa truyền lại …
Định hướng nhiệm vụ trước mắt của huyện trong giai đoạn từ 2015 đến 2020 và những năm tiếp theo bao gồm những nội dung cơ bản: Giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Bảo đảm quốc phòng an ninh. Tiếp tục thu hút đầu tư đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp, tạo bước đột phá trong công nghiệp chế biến và nông nghiệp chất lượng cao, đồng thời chú trọng phát triển các ngành dịch vụ, tạo ra sự chuyển dịch mạnh mẽ hơn nữa về cơ cấu kinh tế. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm giai đoạn 2015-2020 là 13%. Tiếp tục tập trung xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới. Đảm bảo an sinh xã hội. Chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách, từng bước xoá hộ nghèo. Thực hiện tốt các chính sách đối với đồng bào dân tộc, chính sách tôn giáo. Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, sự nghiệp văn hoá, nâng cao dân trí và mức hưởng thụ văn hoá cho nhân dân; nâng cao chất lượng y tế, thực hiện tốt các chương trình y tế cộng đồng. Chăm sóc ngày càng tốt hơn sức khoẻ của nhân dân trong huyện.
Với những tiềm năng sẵn có cùng với quyết tâm của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong huyện, chắc chắn huyện Bảo Lâm sẽ hội đủ những điều kiện về nguồn lực, cơ sở hạ tầng, cơ cấu kinh tế phù hợp để từng bước xây dựng và phát triển bền vững, toàn diện, đưa Bảo Lâm trở thành một trung tâm công nghiệp và dịch vụ của tỉnh, tích cực hội nhập vào tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Leave a Comment